Hàng thủy sản trả về có phải chỉ vì kém an toàn thực phẩm?
Ngày đăng: Thứ năm, 18/04/2013
![]()
Đây
là kết quả báo cáo của Tổ chức Phát triển
Công nghiệp của Liên Hợp Quốc (UNIDO)
đưa ra tại Hội thảo “Đáp ứng tiêu
chuẩn - Chiếm lĩnh thị trường: Giải pháp
tháo gỡ thách thức đối với chuỗi giá
trị thủy sản trong việc tuân thủ các tiêu
chuẩn thương mại” do Cục Quản lý
Chất lượng Nông Lâm sản và Thủy sản
(NAFIQAD), UNIDO và Tổ chức Xúc tiến Thương
mại Nhật Bản (IDE - JETRO) phối hợp tổ chức
vào ngày 21/3/2013 tại Hà Nội. Sau khi được công
bố, điều này đã làm sửng sốt các
đại biểu tham dự đến từ nhiều
cơ quan, ban ngành, tổ chức quốc tế, giới
truyền thông và các DN XK thủy sản Việt Nam vì nó nói
lên thông điệp rằng, Việt Nam đang phải
đứng trước vấn đề đáng quan
ngại về an toàn thực phẩm thủy sản.
Có
thể nói, báo cáo này của UNIDO và Viện
nghiên cứu Phát triển (IDS) (Anh) đã đem đến
cho hội thảo một góc nhìn khác về thực
trạng tuân thủ tiêu chuẩn thương mại
của các “nguồn cung” tại các thị trường NK
lớn để cơ quan chính phủ và DN thủy sản
Việt Nam nhìn nhận thực tế và cải thiện
hơn nữa vấn đề an toàn thực phẩm,
cải thiện chất lượng và truy xuất
nguồn gốc để giải quyết các thách thức
cản đường xâm nhập sâu hơn vào các thị trường
khó tính.
Tuy nhiên, các thông số và kết luận trong
báo cáo của UNIDO đã không phản ánh đúng thực
trạng tuân thủ về an toàn thực phẩm của
thủy sản XK của Việt
Nam vì thiếu tính
thuyết phục.
Tại báo cáo này, UNIDO và IDS đã đưa
ra những con số “biết nói” về tỷ lệ
bị từ chối của các lô hàng thủy sản
Việt Nam, Trung Quốc, Thái Lan, Ấn Độ... và cho
rằng, tổn thất tài chính hàng năm do các
vụ từ chối nhập hàng thủy sản của
Việt
Nam
lên tới 14 triệu USD/năm. Con số 14 triệu USD mà
UNIDO nêu ra không rõ là kết quả thống kê từ
nguồn nào: từ số liệu thống kê của
hải quan hay từ hệ thống cảnh báo của 4 thị trường NK lớn là EU,
Mỹ, Nhật Bản và
Australia. Bởi cho
đến nay trên hệ thống cảnh báo của cả
3 nước lớn về NK thủy sản là Cục
Quản lý Thực phẩm và Dược phẩm Mỹ
(FDA); Bộ Y tế Nhật Bản (MHLW) và Hệ thống
Cảnh báo nhanh EU - RASFF đều chỉ thống kê số
lô hàng NK bị từ chối mà không hề nêu giá trị
lô hàng thủy sản bị từ chối.
Nếu
dựa vào thống kê của Hải quan về giá trị
hàng bị trả về thì con số này cũng không chính xác
vì hàng trả về có nhiều nguyên nhân, chứ không hoàn
toàn vì nguyên nhân an toàn thực phẩm.
Thậm chí, UNIDO còn dẫn chứng tại
Mỹ, số lô hàng thủy sản Việt
Nam có chứa vi tạp
chất (filth) chiếm đến 24,4% tổng lượng
hàng bị trả về. Tuy nhiên, điều này là sự
hiểu sai vì đây không phải là mối nguy an toàn
thực phẩm. Ngoài ra, các lô hàng bị từ chối còn
có thể do DN Việt Nam tự “kéo” hàng về nếu
thấy chưa an tâm về quan hệ giao dịch với
khách hàng hoặc đưa lô hàng về chỉnh sửa bao
bì theo ý khách hàng...
Hơn
nữa, theo tính toán, với kim ngạch XK thủy sản
hàng năm của Việt Nam sang 4 nước Mỹ, EU,
Nhật Bản và Australia trung bình trong 6 năm (2006 -2010) là
3,2 tỷ USD, thì con số tổn thất tài chính hàng năm
của Việt Nam là 14 triệu USD chỉ chiếm
khoảng 0,39% tổng giá trị NK – tỷ lệ này có
đáng bị coi là báo động?
Nhiều
đại biểu và nhà báo đã quá bất ngờ và không
đồng ý với cách tính của UNIDO về tỷ
lệ đơn vị từ chối trên giá trị NK
đối với các sản phẩm thủy sản NK vào
các thị trường chính để ra kết quả là Việt
Nam đang có tỷ lệ từ chối cao nhất.
Bởi vì khối lượng, giá trị và giá trung bình hàng
XK của mỗi nước khác nhau.
Giống
như việc 1 DN chỉ XK 1 lô hàng sẽ ít mắc lỗi
hơn 1 DN XK hàng trăm lô hàng trong 1 năm. Do đó, ngay
tại hội thảo này đã có nhiều
đại biểu cho rằng, cần nhìn vào tỷ lệ
số lượng hàng bị trả về trên tổng
lượng hàng XK để đánh giá khách quan về
chất lượng thủy sản Việt
Nam
trên “sân chơi” toàn cầu.
Sửng sốt tiếp theo mà UNIDO
đã đưa ra tại hội thảo là, Việt
Nam là nước tuân thủ
tương đối kém về tiêu chuẩn an toàn thực
phẩm, ngoại trừ sự chấp nhận của
thị trường
Australia.
Thông tin này đã phủ nhận những nỗ lực
của Chính phủ Việt Nam và cơ quan thẩm quyền
về kiểm soát chất lượng thủy sản,
của các DN và cả những tổ chức chứng
nhận có báo cáo hàng năm về chất lượng an
toàn thực phẩm... Và việc Việt Nam hiện có 567 nhà máy chế biến thủy sản quy
mô công nghiệp đang đáp ứng các tiêu chuẩn an toàn thực phẩm như
HACCP, GMP, SSOP; hơn 400 nhà máy đông lạnh có công suất
7.500 tấn; 415 nhà máy đủ tiêu chuẩn XK sang EU,
tăng 398 nhà máy so với năm 1999; và nhiều nhà máy, vùng
nuôi đạt chứng nhận tự nguyện như
GlobalGAP, ASC, BAP, BRC... liệu có ý nghĩa gì không?
Như vậy, với đánh giá chưa khách
quan và không đầy đủ, những thông tin này sau khi
được đưa ra đã vô tình làm ảnh
hưởng không nhỏ đến uy tín của sản
phẩm thủy sản XK của Việt Nam ...
Toàn cảnh buổi tọa đàm. Ảnh:
TVH
Nguồn tin:
vasep.com.vn